Ông lái già và cây cầu mới

Thảo luận trong 'Rao vặt tổng hợp - Chợ linh tinh' bắt đầu bởi hoca.2009rao, 8/6/16.

  1. hoca.2009rao

    hoca.2009rao Thành viên

    Tham gia ngày:
    1/6/16
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    1
    Giới tính:
    Nữ
    Lễ hợp long khánh thành cầu thế hệ bắc ngang sông được đơn vị vào buổi sáng. Cờ, biểu ngữ đặc sắc. Quan khách và người dân tụ họp đông đúc một bên đầu cầu phía bờ nam là địa điểm hành lễ. Nhiều người cũng có mặt nơi phần đất phía bên kia chờ chấm dứt lễ là qua cầu. Mọi người đều tỏ vẻ rất sung sướng.

    Tham khảo:

    >> truyện ngắn

    Giữa khung cảnh đông vui ấy, dưới sông phía bờ nam có ông già ngồi một mình trên chiếc đò gỗ cũ kỹ. Ông cắm sào neo chiếc đò hơi chếch xa đầu cầu để nhìn cho rõ phía bên trên.

    Ông là chủ bến đò ngang này đã rất lâu năm. Có thể nói việc lái đò ngang là nghề “gia truyền” của ông từ thuở nhì bên bờ sông này đã có cư dân, lập nên làng xã.

    Chương trình lễ khánh thành cầu gọn nhẹ mà vừa đủ ý nghĩa. Các vị đại biểu và đại diện dân chúng địa phương phát biểu, ai cũng nói lên nỗi mừng mập vì tại đây đã có cây cầu thế hệ. Từ bữa nay điều ước mơ bao đời nay của địa phương đã thành hiện thực. Cây cầu nối đường nhánh mở rộng, 1 đầu giáp quốc lộ 1A sẽ giúp mấy xã nhiều ích lợi và chóng phát triển mọi mặt…

    >> đọc truyện tình yêu

    >> truyện hay

    [​IMG]
    Ông chủ tịch tỉnh giấc trịnh trọng tấn công ba hồi trống chầu rồi cắt băng đỏ khai thông cầu. Mấy chùm bong bóng màu bay lên cao. Hàng trăm người từ hai bên đầu cầu hớn hở đi ngược nhau. Họ đặt những bước chân đầu tiên trên cây cầu thế hệ.

    Ông lái già vẫn ngồi trên chiếc đò neo sát bờ sông. Ông ngồi thinh yên ổn, chỉ đưa mắt nhìn mãi cây cầu mới, rồi nhìn về nhì bến đò ngang thân thuộc với cả đời ông.

    Mấy nam giới trẻ địa phương đi bộ qua cầu. Họ dừng lại vịn lan can cầu nhìn xuống sông. Thấy ông lái già, 1 người hỏi lớn:

    - Hết đưa đò rồi, ông có bi đát không?

    Ông lái đưa cao 1 tay chứng tỏ đã nghe nhưng không giải đáp. Thật lòng ông ko bi lụy. Đã đến tuổi gần đất xa trời, ông đâu cạn nghĩ để đi ngược dòng chảy tiềm thức đường đường chính chính của cả một cộng đồng đang khôn xiết mừng vui, toại ý. một lẽ thực tiễn nữa là ông đã già yếu rồi, chẳng thể tiếp tục cái nghề vất vả, dầm mưa dãi nắng nữa. Nếu ai đó cho việc lái đò là một cái nghiệp của số mệnh thì lúc này đây cây cầu thế hệ đã giải thoát ông khỏi cái nghiệp ấy.

    Nhìn cầu rồi nhìn sông, trong lòng ông đột trào lên nỗi nhớ. Quãng sông ngắn mà nhiều quãng đời ông tại đây ghép lại thì khá dài. Từng thước phim ký ức của đời ông quay ngược thời kì trên tấm màn hình bao la là cả vùng sông nước bãi bờ trước mặt ông.

    Từ xưa, chỗ ông đang neo đò là 1 xóm của những người ở ghe, ko có nhà. Gia đình ông mấy đời ở tại đây gắn với chiếc đò. Trong vùng gọi nơi này là xóm Vạn. Ông nhớ xóm có trên mười hộ, mỗi hộ có 1 chiếc ghe mui, mọi người sống trong chiếc ghe ấy, khôn xiết chật chội. Người xóm Vạn mưu sinh bằng các thứ nghề trên cái nền lênh đênh nổi chìm của sông nước. Người thì nhận chở thuê, kẻ chài lưới, vài gia đình ngày ngày chèo ghe đi mua các thứ nông phẩm ở mấy chợ làng trên đem về bán lại tại chợ làng.

    Gia đình ông lái vẫn không rời chiếc đò ngang. Tiền công khách trả cho một chuyến đò ngang chẳng đáng bao nhiêu, đã vậy mà còn lắm khách quen vật nài, cười trừ. Thu nhập của cha rồi tới đời ông vẫn thế.

    Nghề nào của người xóm Vạn cũng đầu tắt mặt tối, ăn bữa sáng lo bữa chiều, chẳng ai khá hơn ai. bởi vì tầm thường cảnh sống, cảnh nghèo nên mọi người ở đây rất thương nhau, tận tình với nhau những khi gầy đau, hoạn nạn, tối lửa tắt đèn.

    Tuy nghèo khổ mà người xóm Vạn lại giàu kỷ niệm và khó quên những việc đáng làm, đáng nhớ.
    Thời chín năm kháng Pháp, ông lái chưa phải chủ đò bởi vì tiên nhân còn đang làm việc này. Lúc lên mười lăm tuổi thỉnh thoảng ông thế hệ phụ với cha giữ phần chèo mũi những khi đò phải chở nặng hoặc sang sông mùa nước béo chảy mạnh.

    Sau Tổng khởi nghĩa tư lăm chiến thắng, làng của ông nhập với mấy làng cũ thành xã bự. Xã nào cũng có ủy ban hồi ấy có tên là Ủy ban binh lửa Hành chánh.

    Xã có xóm Vạn chỉ cách tiền đồn giặc Pháp độ năm cây số đường chim bay. Từ đây trở lên là vùng hòa bình bát ngát của ta. Tuy cách nhau ko xa mấy nhưng nhờ phía cuối làng có một đường truông lượn theo ven sông, nhì bên sông đều là dãy núi dựng đứng, địa thế rất hiểm trở. Nhiều lần địch tấn công lên làng đều bị du kích của ta chận đánh ngay từ đầu truông, chúng phải rút lui. Giặc sợ nhất là bị du kích ta xeo đá từ trên núi cao lăn xuống ầm ầm. Giặc sợ “chiến thuật thủ công” này còn hơn sợ súng, lựu đạn.

    không tiến lên được cửa địa đầu vùng tự do của ta, giặc Pháp thường sử dụng phi cơ ném bom, bắn phá các làng bên sông. Chúng nhắm nhiều vào các chợ và những xóm vạn ghe. Chính quyền các xã của ta chủ trương họp chợ đêm tối, cắt đất cho gia đình các xóm vạn dựng nhà, những ghe còn lại tản ra xa nhau và đều có cành lá ngụy trang. Đò ngang chỉ được đưa khách vào sáng sớm và chiều tối để tránh phi cơ giặc.

    Ông lái nhớ mấy lần được phụ với cha cùng hầu hết chủ ghe xóm Vạn chở bộ đội ta xuôi sông tiến công đồn giặc. Đoàn ghe đi trong ban đêm. Ông còn nhớ như in cái đêm sau Tết năm Canh Dần 1950, đoàn ghe xóm Vạn cùng nhiều ghe miệt trên chở quân nhân đột kích diệt gọn 1 tiền đồn giặc. Ông chạy theo bộ đội vào đồn thu chiến lợi phẩm. Chiếc đò của phụ thân con ông chở nhiều súng đạn nhận được về vùng ta. Suốt đời, mỗi lần nhớ trận chiến ấy, ông thấy như mình trẻ lại, hâm nóng niềm kiêu hãnh của người dân kháng chiến. Rồi tổ tông mệnh chung. Chàng trai mười sáu tuổi phải thay thân phụ lái đò ngang. Cái nghề còn bỏ được chứ cái nghiệp thì khó xong.

    Có đất dựng nhà, người xóm Vạn tuần tự tạo công ăn việc làm trên đất liền như trồng rau, nuôi heo gà, mua sắm bé, trẻ em được đi học. Họ bán một số ghe và bỏ luôn số ghe đã quá cũ.

    Xóm Vạn chỉ còn lại mỗi chiếc đò ngang.

    Ông lài già vẫn ngồi trên chiếc đò cũ để ngắm mãi cây cầu mới vững chắc, đầy sức sống.

    Lại có mấy ông quen đi bộ vịn lan can cầu béo tiếng hỏi ông:

    -Hết đưa đò, có bi thảm không?

    Lần này ông trả lời:

    -Vui chứ sao lại buồn?

    -Nói thật chứ?

    -Tôi chưa bao giờ nói láo.

    Chưa lúc nào ký ức ông tràn về nhiều như lúc này. Nó như sóng trên sông, lớp sau đùn lớp trước, khiến ông tiếp tục nhớ. Chuyện ai oán, chuyện vui lẫn lộn. chẳng hạn ông nhớ tên từng người thân thương ở xóm Vạn đã quá cố, nhớ từng đứa trẻ đã sinh ra. Có nhì giáo viên ở cùng xã với ông dạy trường bên kia sông ngày ngày qua lại trên đò ông. Hồi mới nhận việc, nhì thầy còn rất trẻ, đơn thân, nay họ đã nghỉ hưu. Ông nhớ bao lần đò ông vui mắt chở đoàn người đưa dâu, rước dâu từ xã bên này sang bên kia hoặc ngược lại. Rồi mười tám, nhị mươi năm sau, ông lại làm giống hệt công tác ấy cho con của những cặp vợ chồng son ngày trước. Ông không thể nào quên một thời nghèo khó chung khiến những nồi cơm ở quê ông không có cơm. Thời ấy, người ở đây cười ra nước mắt gọi nồi cơm là “nồi tam cốc” do chỉ có ba thứ: khư khư, bắp, sắn. Mừng thay, hoàn cảnh tệ hại ấy đã dài lâu ko còn lý vì nào để tái diễn…

    Quá trưa rồi, bầu trời xóm Vạn cũ mênh mông nắng sáng. Đã có những chiếc ô tô qua lại trên cây cầu vừa khánh thành.

    Ông lái già đứng lên nhổ cây sào và đẩy chiếc đò khỏi chỗ đậu. Bóng cây cầu thế hệ trải một dải mát ngang mặt sông. Ông chèo đò qua bến cũ bên kia. Ông và chiếc đò “đi” trên dải bóng mát của cây cầu thế hệ.

    Lần độc nhất qua mấy chục năm và cũng là lần rốt cuộc chiếc đò sang sông ko chở khách.
     

Chia sẻ trang này